Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Nghề bế lợn thuê

Những phụ nữ ấy làm một công việc độc nhất vô nhị mà nhiều người sẽ há hốc mồm ngạc nhiên khi nghe đến: bế lợn thuê. Mỗi lần bế một chú lợn, họ được trả 500 – 1.000 đồng tiền công.
Người này đang bê heo để cân ở chợ
Người này đang bê heo để cân ở chợ.
Nghề lạ
Một ngày mưa tháng 10, chúng tôi tìm đến chợ heo (lợn) Bà Rén (xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam). Đây được xem là khu chợ buôn bán heo lớn nhất Việt Nam.
Được thành lập vào khoảng năm 1970, chợ heo nằm sát quốc lộ 1A, gần cầu Bà Rén. Ngày nào cũng vậy, không kể nắng mưa, chợ heo ở đây thường bắt đầu đông từ lúc 5h và kết thúc vào 10h sáng. Khu chợ đang tấp nập kẻ mua, người bán, đa phần là người dân và thương lái tại các huyện của tỉnh Quảng Nam như Duy Xuyên, Thăng Bình, Quế Sơn... Heo ở đây được tập trung từ các thương lái hoặc chủ trang trại nuôi heo tại địa phương.
Đằng sau sự sầm uất của khu chợ là cuộc sống của những phụ nữ tất bật mưu sinh kiếm sống. Không ngại bẩn, mưa nắng hay nặng nhọc, họ vẫn cần mẫn làm nghề bồng (bế) heo thuê tại chợ Bà Rén. Đây được xem là cái nghề nghề độc nhất vô nhị ở Việt Nam và đem lại nguồn thu nhập cho nhiều phụ nữ thôn quê.
Lúc nghề bồng heo thuê này chưa ra đời, mỗi lần cân heo giống là một lần khó khăn vì nhốt heo vào rọ hay trói để cân sẽ làm heo bị trầy xước, mất giá. Đồng thời, bán xong mà còn khiêng heo cho khách thì rất mất thời gian.
Chính vì thế, chỉ có cách thuê người "bồng heo" để cân và khiêng heo cho khách là dễ dàng và thuận lợi nhất. Từ đó, cái nghề bồng heo thuê tại đây đã dần hình thành và phổ biến rộng rãi.
Trong khung cảnh hối hả của phiên chợ heo, chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện mưu sinh thú vị của những người phụ nữ làm nghề “phu heo”. Người bồng heo thuê ở chợ heo Bà Rén đa phần là phụ nữ nông thôn. Họ lặn lội lên chợ heo Bà Rén mưu sinh với nhiều cảnh khổ khác nhau.
Việc kiếm đồng tiền từ việc bồng heo thuê rất khó khăn. Họ phải đánh đổi bằng mồ hôi, giọt nước mắt và công sức để kiếm tiền mưu sinh. Bồng mỗi con heo chỉ được trả công 500 – 1.000 đồng. Tiền công mà họ làm ra mỗi ngày tuy ít nhưng thật giá trị. Đó là tiền để mua thêm cân gạo hay bộ quần áo, tập vở cho những đứa con nhỏ ở nhà.
Giữa bốn bề chợ búa tấp nập, mỗi người một gia đình, hoàn cảnh khác nhau nhưng sự vất vả, gian truân nơi chợ heo nghèo đã gắn kết họ lại gần sau.
Sự giúp đỡ khi bồng giúp con heo, hay sự quan tâm từ câu chào xã giao cũng làm những người phu heo ấm lòng. Trong công việc, dù có lúc mặc cảm vì phải bế những con heo bẩn thỉu nhưng tinh thần thông cảm lẫn nhau đã giúp những mảnh đời nghèo vượt qua tất cả.
Người làm nghề bồng heo đòi hỏi phải có sự yêu nghề và nhẫn nại. Đây là nghề đặc biệt, không đòi hỏi sự khéo léo nhưng lại cần tính thận trọng, chịu khó vì suốt ngày phải tiếp xúc với heo.
Ở chợ heo Bà Rén, thương lái thường chọn những phụ nữ khỏe mạnh, nhanh nhẹn rồi bảo các chị bồng heo lên cân. Sau khi có kết quả, họ trừ đi trọng lượng cơ thể của người, còn lại là trọng lượng thực tế của con heo.
Cô Nguyễn Thị Yến (ở Thăng Bình, Quảng Nam) tâm sự: “Cái nghề ni khó khăn lắm chú ơi. Đôi khi mình bồng heo còn dính phân nữa kia, nhớp nháp, bẩn thỉu lắm. Nhưng chúng tôi vẫn làm vì miếng cơm manh áo, với lại cũng quen rồi. Bồng mà không chắc, sơ xảy là heo chạy mất chứ không giỡn chơi. Mà mất thì tiền mô mà đền”. Giọng Quảng chân chất của cô Yến vang lên, rõ mồn một giữa phiên chợ.
Nhìn cảnh những phụ nữ với bộ quần áo tả tơi, lấm lem, hôi hám vì phân heo đang ráng sức bồng những chú heo con vào lòng để đứng lên cân mới thấy sự khó nhọc và cái giá mà họ phải đánh đổi để kiếm được đồng tiền từ lao động chân chính.
Kể về cuộc sống của mình, chị Ngô Thị Sen (40 tuổi, quê ở huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) cho biết:“Chồng tôi chết sau vụ tai nạn giao thông vào đầu năm 2000. Một mình tôi phải nuôi 2 đứa con ăn học. Sáng thì bồng heo tại chợ Bà Rén, chiều thì phải tranh thủ làm công việc đồng áng”.
Cuộc sống mưu sinh đè nặng trên đôi vai của phụ nữ này. Đôi lúc, chị cảm thấy mệt mỏi, nhưng nghĩ về những đứa con thơ ngây của mình, chị lại ánh lên niềm hi vọng. Chị miệt mài lao động không biết mệt mỏi vì tương lai của hai đứa con.
Tình người
Tiếp xúc và tìm hiểu về câu chuyện của những người phụ nữ bồng heo thuê, chúng tôi thấy khâm phục nghị lực của họ. Những người phụ nữ quê chân chất, có cuộc sống vất vả nhưng họ luôn giữ được tinh thần hăng say lao động.
Nhìn hình ảnh những người phụ nữ với bộ quần áo đã cũ, bồng heo để kiếm những đồng tiền để nuôi sống gia đình, lòng tôi có một sự đồng cảm đến kỳ lạ. Những con người luôn thấy hãnh diện khi đồng tiền được làm ra từ chính bàn tay và mồ hôi của mình.
Tưởng rằng những người phụ nữ bồng heo thuê ở chốn chợ búa này sẽ có nhiều sự cạnh tranh để kiếm được nhiều tiền hơn. Nhưng ngược lại, tình người và cử chỉ của những “phu heo” ở chợ Bà Rén lại rất đẹp. Họ giúp đỡ nhau trong công việc một cách nhiệt tình, chia sẻ và cảm thông cho hoàn cảnh của nhau.
Cô Nguyễn Thu (55 tuổi, ở huyện Điện Bàn) chia sẻ: “Cái nghề buôn bán heo này trông nhớp nháp vậy thôi nhưng có nhiều niềm vui lắm. Những người làm nghề này đa phần là phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương, nên những đồng nghiệp như tụi tui luôn cảm thông và hiểu hoàn cảnh của nhau.
Trong phiên chợ lộn xộn vậy chứ chúng tôi không giành giật khách hàng mà ngược lại, luôn nhường nhịn và giúp đỡ nhau. Đó là điều mà tôi yêu công việc này”.
Khi cái nắng đã gay gắt, chợ heo vãn dần, những giọt mồ hôi nhễ nhại ướt cả chiếc áo cũ sờn của những phu heo thì công việc của họ mới dừng lại. Nụ cười của họ vẫn ngời sáng trong cái mùi khét của mồ hôi, mùi hôi của phân heo. Nói ngắn gọn về cuộc sống của những người phụ nữ bồng heo thuê thì đó là sự đùm bọc, giúp đỡ nhau giữa những mảnh đời cơ cực, khó khăn.
Giữa một cái chợ luôn nồng mùi phân heo thì những người phụ nữ ấy vẫn như những đóa hoa tỏa hương thơm ngát. Vất vả là thế, nhưng cái nghề độc đáo này vẫn được những phụ nữ nơi đây trân trọng vì đó là miếng cơm manh áo của họ, và hơn hết, vì tình cảm ấm áp giữa người với người.
Rời chợ heo Bà Rén, chúng tôi có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống, về sự kiên cường và chân chất của những người phụ nữ xứ Quảng.
Chùm ảnh nghề "phu heo" ở chợ
Theo Tri Thức Trẻ

Bò viên thịt chuột cống Campuchia vào nhà hàng VN

Hàng ngày, sản phẩm từ công nghệ sản xuất bò viên bằng thịt chuột ở Campuchia được vận chuyển trái phép qua biên giới và từ đó phân phối rộng khắp trong hệ thống nhà hàng, quán ăn ở Việt Nam.
Ông Phengdy Seng, 45 tuổi, cứ tối đến là khom mình xuống những lề đường đầy rác bẩn để săn chuột. Đồ nghề của ông gồm chiếc đèn soi đeo trước cái trán đầy nếp nhăn và một cái nỏ tự chế lăm lăm trên tay chĩa vào bất cứ cống rãnh nào.
Phập! Lúc mũi tên của ông đâm vào cổ của một con chuột cống to và nặng cỡ 1kg, tiếng kêu của nó nghe vang vọng trong không gian yên tĩnh của một buổi tối nóng nực. Nếu con mồi vẫn còn sống và lăn lộn với mũi tên, người đàn ông Khmer này liền lấy giày đập vào đầu nó thêm mấy cái cho chết hẳn rồi bỏ vào ba lô. Một câu chuyện bình thường như cơm bữa: những con chuột cống to, lông rậm “chết tươi” như thế đã sẵn sàng đem bán.
Chuột, thịt chuột, bò viên, chế biến, Campuchia
Đại lý “thịt vàng”
Gần cầu Steng Meanchey, ngay phía sau bãi rác trung tâm của thành phố Phnom Penh là một ngôi nhà bên ngoài trông khá bình thường giống như bao ngôi nhà bằng gỗ khác nằm gần đó. Thế nhưng khi nhìn vào 3 chiếc thùng đá đặt sau vườn mới biết đó lại là một “trường chuột” chính hiệu.
Khi tôi có mặt ở “đại lý chuột” chính hiệu Phnom Penh ấy, thì nhìn thấy “Cha mập” – biệt danh của người chủ - đang ngồi trên ghế gỗ hút thuốc, vội vàng đứng lên gói một thùng hàng lớn đến 40kg để gửi qua tỉnh Banteay Meanchey nằm sát biên giới Thái. Ở chỗ của “Cha mập”, chuột sau khi cân và lột da mà chưa cắt đầu thì có giá 3 ngàn riel/kg (mua vào) và còn giá bán là 5-6 ngàn riel/kg. Ngoài thị trường, chuột cống và chuột đồng có giá bán như nhau và chỉ có một số ít “chuyên gia” về chuột mới có thể phân biệt được nguồn gốc của loại “thịt vàng” này – theo như cách gọi của dân trong giới cũng như lời của Chea So, con trai của “Cha mập” cho biết.
Hằng ngày vào lúc hừng đông tại thành phố hai triệu dân này, Phengdy Seng và những tay săn chuột khác lại tập trung ở “đại lý” chuột để kể nhau nghe những gì mình đã săn được ngoài đường tối qua. Mười mấy người theo nhau vào trong ngôi nhà ấy để giao hàng, mang theo những túi hay balô cũ nhồi nhét đầy “chiến lợi phẩm”. Theo sự quan sát của PV MTG-cả buổi sáng có mặt ở “đại lý chuột”-26 dân săn chuột đều lên để bán hàng.
Chuột, thịt chuột, bò viên, chế biến, Campuchia
Nghề này đang thu hút khá đông những người nghèo khó ở đủ các độ tuổi của Phnom Penh. Như hai anh em chưa đầy mười tuổi, đã bắt được 1,2kg chuột trong xóm mình đêm qua để kiếm tiền trả học phí. Hay “ma mới” Phengdy, thường bắt được 6-7kg chuột mỗi ngày (khoảng 24 con) để được có 4 đô la bù đắp vào những giờ vất vả do phải chịu đựng chuột cắn. Còn ông Saphaea là “sư phụ” của cả nhóm, đêm nào cũng bắt được từ 20kg trở lên (khoảng 50 con). Với giá bán từ 3 ngàn riel/kg, “sư phụ chuột” này đã kiếm được 450 đô la mỗi tháng - còn cao hơn cả lương cảnh sát ở đất nước đang phát triển này.
Sau khi cân chuột xong, một gã thanh niên cơ bắp, vẻ mặt gian xảo - liền bỏ thịt vào một cái thùng xốp không ướp đá. Mùi hôi thối của thịt bốc ra nồng nặc. Hàng ngàn con ruồi bu đen kịt quan chiếc container có chứa bên trong bao nhiêu là thùng xốp đựng thịt chuột, thứ thịt nhiễm độc đang chuẩn bị mang đi chế biến.
Xâm nhập đường dây nơi biên giới
Buổi trưa, tôi thấy có một chiếc xe trông khả nghi đến nhà đại lý để nhận và giao thịt tới thành phố Poipet thuộc tỉnh Banteay Meanchey để làm… bò viên. Tôi được biết chuyện rợn người này từ lời kể của anh Seapchey Som, một lái buôn đường dài theo xe từ Phnom Penh thường xuyên đi Poi Pet. Anh nói: “Trên quãng đường gần 400km này, tụi tôi rất dễ bị công an kiểm tra để phải “cúng” thường từ 50 -100 đôla tùy theo số lượng”.
Phần lớn số thịt này sẽ đem bán ở Thái Lan với mác “chuột đồng”. Nhưng chính tay Som khi đi mua thịt đã mang nó đến xưởng làm bò viên ở 2 cơ sở: một là ở biên giới Thái còn một nữa ở trong khu Steung Meanchey. Chỉ có mấy cơ sở thủ công nhỏ tại nhà thì mới làm thịt chuột, còn các công ty lớn thì không bao giờ. Nguy cơ bị công an bắt rất cao, nên ít ai dám đánh liều tiền bạc của mình vào đầu tư máy móc.
Một phần số chuột cống bẩn này sẽ gửi qua cửa khẩu Khánh Bình, xã Khánh Bình, huyện An Phú, An Giang để đem bán lậu cho người Việt Nam.
Ở Campuchia, sát biên giới Khánh Bình, cơ quan chức năng nhìn chung vẫn còn hoạt động rất lỏng lẻo. Nhiều hàng hóa chỉ được xử lý hay kiểm dịch rất vội vã và tắc trách. Những ai trông giống người bản địa qua lại hai bên đều không bị khám xét. Chiếc xe nào có biển số quen đều có thể chạy tự do qua cổng với những binh sĩ biên phòng Khmer đứng nhìn thờ ơ. Thật không may cho người tiêu dùng Việt Nam, chính tình tình trạng lỏng lẻo này đã tạo điều kiện cho các đường dây mua bán thịt chuột hoạt động.
Lộc (anh xin được đổi tên), một tiểu thương Việt Nam quen mua bán chuột giữa Phnom Penh và cửa khẩu Khánh Bình giải thích: “Tôi mua chuột với giá 4-5 riel rồi bán lại với giá 6-7 riel, tùy theo sức mua của thị trường vào ngày hôm đó. Chuột đồng rất có giá vào mùa khô và khi qua chế biến rồi thì chuột đồng và chuột cống chỉ là một”.
Đối với dân buôn bán người Việt, chuyện làm thịt giả là đi quá giới hạn luật pháp và cả sức tưởng tượng. Nhiều cửa hàng làm giò chả, từng đồng ý làm hàng của mình từ tôm hoặc cá cũ, nay nếu làm giả từ… thịt chuột thì thật quá “nghiêm trọng”. “Người ta sợ Sở Y tế phát hiện ra thì sẽ bị phạt hoặc bị bắt” – Anh Nguyễn Vi Hưng, một cò xe ôm làm ăn giữa hai bên biên giới cho biết.
Chuột, thịt chuột, bò viên, chế biến, Campuchia
Thế là để làm “bò đểu xuất khẩu”, những nhà cung cấp chuột sẽ tìm đến một số cơ sở nhỏ ít vốn đầu tư, không thu hút sự chú ý của các cơ quan kiểm tra, nằm ở ngoại ô Phnom Penh. Ngay ở tầng hầm và sân sau của những trung tâm mua bán lớn ở Phnom Penh, là một nhóm những cơ sở nhỏ, bất hợp pháp đang đánh cược số phận của mình vào nguy cơ bị phạt tiền và thậm chí bị bỏ tù để chế biến những viên thịt chuột cống nhiễm bẩn thành những miếng bò viên được đóng gói cẩn thận. Không quan tâm đến phúc lợi cộng đồng hay người tiêu dùng có thể bị mắc bệnh. Lợi nhuận đã làm mờ mắt tất cả những con người này khi họ tham gia vào cả một ngành công nghiệp sản xuất “bò đểu”.
Cơ sở “bò đểu” ở Phnom Penh
Nằm sâu trong một con hẻm vắng vẻ ở Steung Meanchey, phía sau đường Choam Chao, là một nhà kho nhỏ chỉ rộng 40m². Sau cánh cửa nhôm có 5 người đàn bà lớn tuổi, tóc đều bạc, ngồi dưới đất. Sự im lặng bao trùm buổi chiều ngột ngạt, chỉ có tiếng kêu lách cách của lưỡi dao bằng kim loại, tiếng bằm thịt, tiếng nước sôi và tiếng quạt trần đều đều. “Bò viên” từ nơi đây xuất ra không hề thơm tự nhiên hoặc có nhiều gia vị như bò viên thật, bởi nguyên liệu chính là thịt chuột cống.
Trong 2 cái thùng xốp dơ bẩn là hàng trăm thớ thịt chuột được xếp thành lớp, hôi nồng nặc, da đã lột, đầu cũng đã cắt ra, chỉ còn chiếc đuôi dài khoảng 15cm thì vẫn gắn liền với tấm thân thối rữa. Phần đầu tiên trong công đoạn chế biến: màu nhân tạo sẽ được bỏ vào trong thùng thịt để có “màu bò tự nhiên”. Hai người đàn bà ngồi ghế đẩu sẽ cho từng con vào một cái máy nghiền cũ kỹ. Ở đầu bên kia “ói” ra một thứ thịt vàng vàng, vẫn cứ hôi thối. Sau khi tất cả bị ném xuống cái sàn nhà kho dơ bẩn, quy trình chế biến đổi từ “chuột cống thành phố” thành “bò đểu” bắt đầu.
Sau khi xay hết thịt, một cô gái người Khmer sẽ bỏ nước mắm, bột thịt bò, bột tiêu, bột nêm vào thịt trộn đều cho đến lúc thịt quánh lại. Khi đã được “vị thịt tự nhiên”, những thợ làm thịt Khmer đó sẽ vô tư bọc thêm một lớp bột thịt bò bên ngoài, tức là bao miếng thịt chuột cống vào trong một lớp bột dày màu vàng. Sau khi được phủ bột gia vị và màu nhân tạo, thịt chuột cống bây giờ trông giống như thịt bò đàng hoàng, và trông không khác gì bò bằm thứ thiệt.
Trong góc kho, đứng uể oải bên một nồi đun nước khổng lồ là một người đàn bà Khmer khoảng 60 tuổi, một tay cầm xẻng gỗ, một tay cho thịt đã quết vào nồi để luộc cho đến chín. Khi thịt chín đều, bà lấy “chuột viên” ra, bỏ vào một tô thép, chờ xe tải đến chở đi giao hàng qua biên giới Việt Nam. Hàng sẽ được cân tại kho theo từng bịch nhựa loại 15, 25,30kg không nhãn mác, để khi qua biên giới, sẽ chỉ còn là những túi nhỏ từ 3kg trở lên.
Theo MTG

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Những món ăn hút khách được làm từ thịt thối tẩm hóa chất

Quy trình sản xuất giăm bông ở một cơ sở trên đường Miếu Gò Xoài, khu phố 11, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, TP.HCM thật ghê rợn. Da heo hôi thối, bầy nhầy được đổ thẳng xuống nền nhà nhớp nháp, cạnh nhà vệ sinh. Da được may thành túi rồi cho vào một cái thau lớn. Khi đổ ô-xy già vào, lập tức nước trong thau sôi lên sùng sục. Những váng bọt màu trắng đục, màu đỏ, màu xám tái nổi lên từng lớp, quyện với nhau kín mặt thau. Lúc này, mùi hôi thối, tanh tưởi bốc lên nồng nặc.
Sau đó, họ đổ nước khác vào, dùng hai chân trần giẫm đạp liên tục cho đến khi những chiếc túi da hết nhớt và trắng, chuẩn bị mang đi nhồi thịt...
Giăm bông bán ế được trả về cơ sở để tái chế.
Khâu làm nhân từ thịt cũng dơ bẩn không kém. Đó là thịt vụn, ế ẩm, trữ cả tháng trong tủ lạnh. Số hàng này đã mềm nhũn, chảy nước, biến sắc và bốc mùi hôi thối nồng nặc. Sau khi sơ chế bằng muối và dùng chân giẫm đạp, họ dùng một loại bột được gọi là muối đỏ và nhiều “gia vị” khác không rõ nguồn gốc vào thau thịt, đặc biệt là rất nhiều ngũ vị hương để át mùi hôi thối.
Thịt sẽ được nhồi vào những túi da, tạo thành giăm bông đem luộc chín và bỏ tủ lạnh.
Sáng hôm sau, công nhân tháo dây ra, lấy các đòn giăm bông đem rửa nước lạnh có pha với một loại hóa chất lạ - một dạng bột mịn màu trắng, mùi hôi nồng nặc, nhằm loại bỏ số mỡ dính trên đó. Sau đó, chúng tiếp tục được nhúng với nước sôi có pha với loại bột màu đỏ, không nhãn mác, rồi cho vào bịch ni lông đem giao cho khách hàng.
Ruốc làm từ bã sắn dây, gà chảy nước
Một lượng lớn ruốc trên thị trường hiện nay được làm từ bã sắn dây. Theo tiết lộ của chủ sản xuất, bã đã vứt bỏ tại các cơ sở chế biến bột sắn dây được mua về, sau đó sấy khô và được xé tơi thành sợi như ruốc. Để có hương vị đậm đà, bã sắn dây được tẩm ướp thêm gia vị, bột hương thịt heo, phẩm màu... nhằm đánh lừa vị giác người tiêu dùng.
Ruốc từ gà đông lạnh chảy nước.
Giá “ruốc sắn dây” phụ thuộc vào tỷ lệ thịt heo thật và bã sắn được phơi khô và cho vào chế biến. Thông thường, cứ 7kg bã sắn và 3kg ruốc thật thì sẽ được 10kg “ruốc giả”.
Để tăng lợi nhuận, nhiều hộ sản xuất còn mua gà đông lạnh đã chảy nước, không rõ nguồn gốc về chế biến thành ruốc. Ruốc này được bán với giá siêu rẻ, chủ yếu cho nhà hàng, người bán xôi, bánh mì... , phần khác được trộn với ruốc lợn để bán giá cao.
Thịt dạt, hóa chất độc hại làm giò chả
Các loại chả lụa, chả bò, chả chiên... đều chứa tỉ lệ mỡ heo khá lớn. Để chả ngon, đẹp và lâu hư, người ta pha trộn thêm đủ loại hóa chất.
Hai loại nguyên liệu chính là thịt và mỡ sẽ được trộn đều rồi xay nhuyễn, sau đó trộn các loại gia vị, chất bảo quản như đường, bột ngọt, bột nở, hàn the, hương nước mắm, hương thịt heo, muối đỏ và bột chống mốc. Hỗn hợp này sau khi cân được đưa vào máy ép thành từng đòn, bọc ni-lông hấp chín...
Nguyên liệu thịt bò vụn dùng để sản xuất chả bò. (Ảnh nhỏ: Chả lụa được sản xuất từ thịt và mỡ heo)
Quy trình sản xuất chả bò tại một cơ sở có tiếng ở An Phú Đông, quận 12, TP.HCM cũng thật hãi hùng. Cơ sở này lấy thịt bò từ mối lái ở Tây Ninh đem về (chủ yếu là thịt dạt, thịt vụn). Thịt bò không trộn với mỡ bò mà trộn với mỡ heo. Tùy theo giá cả mà cơ sở pha lượng mỡ 30% hay 60%, tuyệt nhiên không có loại chả bò nào được làm hoàn toàn bằng thịt bò. Sau khi xay nhuyễn thịt và mỡ, người ta trộn hàn the, hương nước mắm, hương thịt bò, bột nở, bột chống mốc và bột màu vào.
Patê = Gan lợn chết + mỡ thối
Nguyên liệu chính làm patê là gan, mỡ heo và bánh mì. Tuy nhiên, vì muốn có lãi cao, nhiều cơ sở mua gan từ heo bệnh, heo chết về làm. Loại gan này có màu đen thẫm, không còn mùi thơm đặc trưng và sau khi chế biến, patê sẽ có màu lốm đốm, không đồng đều. Để khắc phục, người chế biến cho phẩm màu rẻ tiền vào.
Muốn lãi cao, nhiều cơ sở còn chọn loại mỡ thải từ các chợ, chất lượng không bảo đảm, giá bán rất rẻ, chỉ hơn 10.000 đồng/kg. Thậm chí, nhiều người còn sử dụng cả mỡ thối.
Nhiều cơ sở cũng không ngần ngại tận dụng nguồn bánh mì ế, bị mốc của các tiệm để làm patê. Hương thơm chính của patê là từ đại hồi, đinh hương, thảo quả nhưng nhiều cơ sở lại chọn hương patê (hóa chất) do giá rẻ, chế biến đơn giản.
Nem chua làm từ bì thối
Tại một cơ sở sản xuất nem ở Thanh H����a, trong một căn phòng khoảng 45m2 nồng nặc mùi hôi của thịt, bì lợn, rác rưởi, hóa chất, có hàng chục công nhân hì hục làm nem. Tất cả công nhân đều dùng tay trần để nhào trộn thịt.
Nhìn bề ngoài, không thể biết được những thực phẩm này được làm từ nguyên liệu không đảm bảo chất lượng.
Nhiều đống bì lợn đã bốc mùi hôi thối vứt bừa bãi dưới nền gạch bẩn, ẩm ướt. Bì lợn được sơ chế qua các công đoạn hết sức nhanh chóng rồi được thả vào các thùng chứa chất tẩy trắng, hoặc ôxy già, ngâm trong một thời gian nhất định. Hóa chất dùng để làm trắng bì lợn được xuất xứ từ Trung Quốc.
Thịt và bì lợn sau khi xay được cho vào một cái thùng lớn rồi trộn đều với gia vị được đựng sẵn trong các can, thùng. Sau đó, hàng chục công nhân xúm lại gói thịt và bì thành những miếng nem nhỏ bằng ngón tay cái, chất thành đống trên nền đất đầy rác rưởi. Loại men được trộn có tác dụng làm chua thịt và “ép” chín thịt, nếu để lâu sẽ làm cho thịt bị hỏng, tạo ra mùi hôi khó chịu và gây nguy hiểm với sức khỏe người tiêu dùng.
Theo Vietnamnet